Tóm tắt luận văn báo cáo thực tập ngân hàng các tỉ lệ chiếc khấu tài chính trong thẩm định dự án
Trên thực tế, không thểthấy rõ tính phù hợp và nhu cầu cần phải phân biệt hai
quan điểm này trong quá trình chọn lựa dựán. Tức là, trong hoàn cảnh nào thì ta sẽchọn
sửdụng giá trịhiện tại của báo cáo ngân lưu theo quan điểm tổng đầu tư(CFS-TIP) thay
vì giá trịhiện tại của báo cáo ngân lưu theo Quan điểm Vốn cổ đông (CFS-EPV)?
Jenkins & Harberger không thảo luận hoặc hướng dẫn gì vềviệc ước tính các tỉlệchiết
khấu phù hợp cho hai quan điểm này. Cũng dễhiểu vềchuyện không có phần thảo luận
vềviệc ước tính và tính toáncác tỉlệchiết khấu tài chính phù hợp cho hai quan điểm
này. Xem Tham (1999). Trong bối cảnh truyền thống của việc thẩm định dựán, tầm quan
trọng tương đối của chi phí cơhội kinh tếcủa vốn, so với chi phí tài chính của vốn, luôn
luôn cao hơn. Tuy nhiên, trong một sốtrường hợp, chi phí tài chính của vốn có thểcũng
quan trọng không kém, nếu không nói là quan trọng hơn, để đánh giá và bảo đảm tính bền
vững tài chính của dựán. Do tài liệu hướng dẫn đó thiếu phần thảo luận nhưvậy, ta
không biết những giả định rõ ràng (hoặc ngầm) vềmối quan hệgiữa giá trịhiện tại của
CFS-TIP và giá trịhiện tại của CFS-EPV. Ví dụ, trong những điều kiệnnào thì ta có thể
giả định một cách hợp lý rằng hai quan điểm này bình đẳng nhưnhau?
Jenkins & Harberger (Chương 3:11, 1997) viết:
“Nếu một dựán có khảnăng sinh lợi xét theo quan điểm
của một ngân hàng hay phòng ngân sách, nhưng lại không
có khảnăng sinh lợi xét theo quan điểm của chủsởhữu, dự
án đó có thểgặp phải nhiều vấn đềkhó khăn trong khi thực
hiện.”
Nhận định này cho thấy rằng trên thực tếviệc hai giá trịhiện tại không bằng nhau là điều
được dựkiến, và có thểlà một khảnăng có thểxảy ra thực, chứkhông phải là một trường
hợp ngoại lệhiếm hoi. Tuy nhiên, nhận định này làm nảy sinh nhiều câu hỏi. Nếu đúng là
hai giá trịhiện tại không bằng nhau, thì điều gì dẫn đến sựkhông bằng nhau đó? Nhận
định trên thậm chí không gợi ý được một nguyên nhân khảdĩdẫn đến việc hai giá trịhiện
tại không bằng nhau. Hai giá trịhiện tại đó có ý nghĩa gì hoặc có thể được lý giải ra sao?
Việc lý giải hai quan điểm này đặc biệt khó khăn khi các giá trịhiện tại có dấu trái
ngược nhau. Ý nghĩa hay tầm quan trọng thực tiễn của sựkhác biệt vềhai giá trịhiện tại
này đối với việc lựa chọn dựán không được lý giải, mà cũng chẳng dựa vào bất cứlý
thuyết nào vềtính giá trịngân lưu. Nếu đúng là có sựkhác biệt vềhai giá trịhiện tại, thì
có thểthấy rằng giá trịhiện tại theo quan điểm này là sốdương, trong khi giá trịhiện tại
theo quan điểm kia là sốâm, hoặc ngược lại. Trong lựa chọn dựán, khi nào thì nên chọn
giá trịhiện tại này thay vì giá trịhiện tại kia (nếu quảlà cần nhưthế), hay cảhai giá trị
hiện tại cần phải là sốdương thì dựán mới được chọn?
Việc lý giải sựkhác biệt giữa hai giá trịhiện tại (kỳvọng) theo hai quan điểm
càng nghiêm trọng hơn khi thực hiện mô phỏng Monte Carlo với các báo cáo ngân lưu
bởi vì phương sai của hai giá trịhiện tại này sẽkhác nhau. Vì thế, biên dạng rủi ro (risk
profile) của ngân lưu xét theo hai quan điểm sẽkhác nhau. Ngay cảvới NPV kỳvọng
bằng nhau xét theo hai quan điểm, phương sai của NPV xét theo hai quan điểm cũng khác
tải tài liệu
tại đây
xem thêm tài liệu khác tại: http://tailieumau.vn/
tags: báo cáo thực tập | báo cáo thực tập ngân hàng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét